Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2018

    Thứ Hai, 3 tháng 7, 2017

    LỄ ĐÓN NHẬN BẰNG XẾP HẠNG DI TÍCH VĂN HÓA CẤP TỈNH MỘ CỬ NHÂN NGUYỄN HỮU QUÂN

    Chính quyền địa phương, Gia tộc và con cháu tổ chức lễ viếng hương
    tại khu mộ Cụ Nguyễn Hữu Quân - chiều 30/4/2017(mồng 5/4 ÂL)


    Lễ công bố Quyết định công nhận Mộ Ông Nguyễn Hữu Quân là Di tích văn hóa cấp tỉnh của UBND tỉnh Quảng Nam - sáng 01/5/2017(mồng 6/4 ÂL)

    Các tiết mục văn nghệ tại buổi Lễ đón nhận Bằng xếp hạng di tích lịch sử
    Ca sĩ Quang Hào cũng tham gia 01 tiết mục văn nghệ 
    Đại diện Gia tộc Nguyễn Hữu và con cháu lên đón nhận Bằng xếp hạng di tích lịch sử
    PGS-TS Ngô Văn Minh - Học viện chính trị khu vực III phát biểu tại buổi Lễ 

     Bác Nguyễn Hữu Hoằng, đại diện con cháu phát biểu cảm nghĩ tại buổi Lễ

    CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG TỪ ĐƯỜNG NGUYỄN HỮU TỘC NĂM 2016-2017


    Khu gian trước
    Kết cấu bên trong khu Từ đường

    Khu từ đường cũ 

    Thứ Ba, 20 tháng 10, 2015

    CỬ NHÂN NGUYỄN HỮU QUÂN VÀ TRẬN CHIẾN ĐẤU CHỐNG GIẶC TÀU Ô Ở NAM SÁCH

    Trong khoảng vài chục năm, kể từ năm 1868 vào nửa cuối thế kỷ thứ 19, ngoài việc đương đầu với hoạ xâm lăng của đế quốc thực dân Pháp từ phương Tây sang, nhân dân các tỉnh miền Bắc còn phải đối phó với bọn giặc Cờ Đen, Cờ Trắng, Cờ Vàng vốn là dư đảng của Thái Bình thiên quốc ở Trung Quốc tràn qua biên giới cướp phá dân ta và đánh lẫn nhau ở mạn Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng… và cả bọn giặc Tàu Ô ở mặt biển vào cướp phá ở mạn Quảng Yên, Hải Dương…

    Nói riêng về bọn giặc biển Tàu Ô, theo Đại Nam thực lục chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn, quan quân triều đình thời vua Tự Đức và quan quân địa phương đã nhiều lần ra công đánh dẹp, có một số trận đánh thắng, nhưng có nhiều trận chúng kéo vào rất đông, gây ra nhiều thiệt hại đối với quân dân ta.

    Đại Nam thực lục chính biên, quyển XL VII (trang 231, NXB Khoa học xã hội in năm 1975) có ghi một đoạn như sau:
    “Thuyền giặc thuộc hạt Quảng Yên (hơn 90 chiếc thuyền và bè lũ giặc 1300 người) hiếp đành phủ lỵ Nam Sách thuộc tỉnh Hải Dương. Nhiếp biện phủ vụ là Nguyễn Hữu Quân, tác vi Phó lãnh binh là Hoàng Văn Chữ đem quân lên thành chống giữ đều bị giặc giết chết. Quân được gia tặng hàm thị độc (1). Chữ được truy tặng Quản cơ, các quân bắt giặc được chiếu lệ truy tặng và cấp tiền tuất”.
    Cụ Nguyễn Hữu Quân, tên tự là Trúc Hiên, sinh năm Bính Thân (Minh Mạng năm thứ 17 – 1836) người thôn Trúc An, thường gọi là Phước Yên (2) tổng Phú Mỹ, huyện Duy Xuyên, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là làng Phước Yên, xã Đại Hoà, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Thân sinh là Nguyễn Hữu Phước, một nhà nho nghèo, có lều chõng đi thi nhưng không đỗ, ở nhà dạy học trò và dạy con. Anh trai là Nguyễn Hữu Khát, sau lần đi thi Hương đều đỗ tú tài.

    Cụ Nguyễn Hữu Quân đỗ cử nhân khoa Đinh Mão tại trường Thừa Thiên năm Tự Đức thứ 20 (1867), năm sau dự khoa thi Hội, nhưng không đạt ở bài thi văn sách. Theo sự đề tấu của Bộ Lại, cụ Nguyễn Hữu Quân được vua Tự Đức phê chuẩn vào ngạch Huấn đạo và bổ đi làm Giáo thụ phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, theo tờ Sắc dụ ngày 4 tháng 6 năm Tự Đức thứ 21 (1868). Thời gian sau đó, cụ về gia đình để thọ đại tang: khi mãn tang đổi lĩnh Giáo thụ phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương, giữ chức Nhiếp biện phủ vụ phủ Nam Sách (tức quyền Tri phủ).
    Cuộc chiến đấu quyết liệt để chống giữ phủ thành Nam Sách do cụ Nguyễn Hữu Quân chỉ huy diễn ra đêm 26 tháng Giêng năm Tự Đức thứ 25 (1872), đã kết thúc với sự thất thủ phủ thành và sự tuẫn tiết hy sinh vô cùng dũng cảm của một nhà nho khi cần cũng biết cầm gươm chống giặc.
    Theo tờ tấu của Bộ Binh với triều đình về việc thất thủ phủ Nam Sách và xin vua chuẩn y sự quyết định xử lý của Bộ trong việc này (tờ tấu đề ngày 25 tháng 7 năm Tự Đức thứ 25), có những đoạn như sau:

    “… Trong tháng 2 và tháng 5 năm đó, bầy tôi của tỉnh Hải Dương là Lê Hữu Thường và thị sự Lê Tuấn đã dâng tờ khai tình hình thất thủ phủ thành Nam Sách. Hôm đó là ngày 26 tháng Giêng, bọn giặc đưa hơn 90 chiến thuyền vào giang phận của phủ này rồi tiến lên công phá phủ thành. Quân giặc có hơn 1.300 tên, mà quân giữ phủ chỉ có hơn 600, trong đó quá nửa là quân mộ dũng chứ không phải biên chế cơ đội chính quy. 
    Mặc dù có sự chống cự quyết liệt, nhưng cũng không giữ nổi phủ thành, bị giết 14, bị thương 13, tan tác thất lạc 115. Khí giới bị mất: 3 súng tích sơn, 5 súng quá sơn, 4 đại bác, 4 thần công, 2 thảo nghịch tướng quân, 38 súng trường bắc-cơ-ô-sang, 3.360 viên đạn, 460 cân 9 lạng thuốc súng, 136 ống phun lửa. Về lương thực tiền bạc: 742 quan tiền thuế, thóc nghĩa lương 874 hộc, gạo thuế 998 phương, thóc thuế 492 hộc, muối 6 phương. Về văn thư hồ sơ luật lệ, địa bạ các xã 55 bản… đều bị bọn giặc cướp đốt sạch. Bọn ở trại tù cũng nhân thế mà bỏ trốn, tất cả 26 tên.

    Những người trong quân ngũ của tỉnh được phái về trú thủ phủ thành đó bị thua chạy thoát về tỉnh có 5 tên đều phải cách chức giao cho tỉnh so luật định đoạt…
    Còn như việc không thân sức kịp thời như tỉnh thần Lê Hữu Thường, phiên ty và niết ty tỉnh đó là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Tạo thì  cần phải nghị tội. Nhưng xét ra các viên này theo hồ sơ cũ đã bị giáng 4 bậc lưu chức rồi, nay cũng nên xét lượng mà khoan miễn cho phần nào, song phải tâu xin ý chỉ rồi mới tuân hành (chỗ này được vua châu phê chuẩn cho).

    Còn Phó lãnh binh Hoàng Văn Chữ, các cai đội Dương Văn Hoài, Trần Đạt, Lê Cảnh Hàm, nguyên Giáo thụ phủ Nam Sách kiêm Nhiếp biện công vụ trong phủ là Nguyễn Hữu Quân đều là những người có trách nhiệm giữ thành: khi giặc công bức thành, bọn này đều xông mình lên trước ba quân, lên mặt thành chống đánh giặc cho đến khi thành mất, thân bị giặc giết. Như Nguyễn Hữu Quân là viên quan văn, thế mà cũng đề kiếm xông ra chiến đấu, bị giặc bắt được còn lớn tiếng mắng giặc cho đến khi bị chúng giết: em y là Nguyễn Văn Bốn cũng bị giặc giết chết (chỗ này được châu phê rằng: “chuẩn cho xét viên nào, là người tỉnh nào, xuất thân chức ngạch gì thì cho khâm theo thi hành”)…

    Còn như Nguyễn Hữu Quân, nguyên lĩnh chức Giáo thụ quyền Nhiếp biện công việc phủ Nam Sách thì xin truy tặng ngạch thực thụ và xin gia tặng chức của Hàn lâm viện (Chánh lục phẩm). (Chỗ này được vua châu phê là: “Gia tặng Hàn lâm viện thị giảng và ấm thụ cho một người có hàm tòng cửu phẩm, cùng chiếu lệ cấp tiền tuất)…
    Dám xin ý chỉ xét soi lời tâu bày của bầy tôi bản Bộ những ý kiến nghị bàn. Xin chép theo nguyên ý, bản Bộ lưu giữ một bản để làm lưu chiểu. Thần kính cẩn trình bày vâng dâng” (3).

    Sách Đại Nam liệt truyện (do NXB Thuận Hoá - Huế in năm 1997, tập 4 trang 421) cũng có ghi một đoạn như sau:

    “Nguyễn Hữu Quân, tự là Trúc Hiên, người huyện Duy  Xuyên, đỗ cử nhân khoa Đinh Mão năm Tự Đức thứ 20 (1867), thi Hội được dự phân số điểm. Bắt đầu bổ Huấn đạo lĩnh Giáo thụ Quảng Trạch. Có đại tang về nghỉ việc, khi mãn tang đổi lĩnh Nam Sách. Năm thứ 25 (1872) làm thay việc phủ. Bấy giờ hơn 90 chiến thuyền phỉ và hơn 1.300 đồ đảng phỉ ở Quảng Yên áp đến đánh phủ thành. Quân cùng với lãnh bình Hoàng Văn Chữ lên thành chống cự, bị giặc giết chết, được gia tặng Thị giảng và cũng liệt thờ vào Trung nghĩa từ. Con là Nguyễn Hữu Đệ được ấm thụ Đãi chiếu”.

    Tin dữ về việc Cử nhân Nguyễn Hữu Quân tử trận ở Hải Dương được báo về rất sớm cho gia đình và quê nhà ở Quảng Nam. Phu nhân cụ Quân là Phan Thị Tú lúc bấy giờ là một thiếu phụ mới 32 tuổi.

    Thân gái dặm trường, nhờ sự giúp đỡ của các quan chức địa phương và các binh trạm trên dọc đường thiên lý, bà lặn lội ra Bắc. Đầu tháng 4 năm ấy, bà ra tới Nam Sách, Hải Dương. Viên cai tổng địa phương có làm tờ trình (ghi ngày 9 tháng 4 năm Tự Đức thứ 25) gửi cho bà, trích những đoạn chủ yếu như sau:
    “Tôi, Đặng Văn Lương, cai tổng tổng Mạn Đê, thuộc huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách, kính trình với bà chính thất của quan Tri phủ phủ Nam Sách xét rõ cho việc sau đây:

    Nguyên ngày 26 tháng Giêng năm nay, phủ này bị giặc bể vào công phá cướp phủ thành. Tôn ông là quan Tri phủ chống nhau với giặc bị chết tại trận. Di hài nằm tại trong phủ. Nay tôi nghĩ là: Người vì con dân mà hết lòng, vì nhiệm vụ mà xông pha, bị như vậy rất là thương xót. Cho nên đến nửa đêm ngày 26, tôi đem anh em tuần phiên và người nhà lần vào phủ tìm kiến thì quả nhiên thấy di hài của Người, bèn đem về địa phận xã tôi. Nhưng ngặt vì lúc đó… khó mua kiếm được quan quách sơn son, cho nên đành tạm quyền biến kiến vải thô ván xấu để mai táng Người, nhưng cũng làm đủ thủ tục lễ mai táng chung. Đầu ngày hôm sau lại đem di hài người nhà của Người tên là Bốn cũng bị chết trong phủ về chôn cất và đều đắp nấm vun mồ đánh dấu cẩn thận rõ ràng, và có làm biên bản gửi bẩm lên tỉnh hẳn hoi…

    Tôi nghĩ rằng: “ai là không có tấm lòng báo đáp nghĩa ơn, nhưng quan sơn muôn dặm trở ngại xa xôi. Nay tôi khẩn thiết xin rằng: Người là người đi ngàn dặm để chăn dân, dân cũng phải coi Người là vị tôn thân kính trọng. Xin để Người được yên nghỉ tại nơi đây trong hai ba năm, cho dân ở đây được giữ gìn cẩn thận không ngại điều chi. Đợi sau đó sạch sẽ, sẽ đón hài cốt của Người về nơi nguyên quán, thì lòng dân chúng tôi mới được yên vây!”  (4).
    Không có những văn bản ghi lại công tích của Cử nhân Nguyễn Hữu Quân, quyền Tri phủ Nam Sách đối với dân địa phương trong thời gian ông trị nhậm ở đây, song qua lời lẽ của viên Cai tổng Đặng Văn Lương cũng thấy được tình cảm của dân địa phương đối với vị quan Giáo thụ quyền Tri phủ thật là thắm thiết!
    Nhờ sự giúp đỡ của các quan chức tỉnh Hải Dương và của địa phương, bà Phan Thị Tú quyết định đưa hài cốt của cụ Nguyễn Hữu Quân và của người nhà là Nguyễn Văn Bốn theo đường thuỷ vượt sông biển vào cửa Thuận An về Huế trước khi đi tiếp qua đèo Hải Vân đưa về mai táng tại quê nhà ở Quảng Nam (5).

    Tại Huế, các quan chức của Bộ Binh và Bộ Lễ cùng bà đưa linh cữu của ông vào trước Trung nghĩa từ để thắp hương và lập thần vị phối thờ ông ở đấy.
    Trong văn bản trên không ghi cụ thể cụ bị giặc giết như thế nào. Nhưng cụ bà Phan Thị Tú trong những ngày ở Nam Sách đã nghe được viên Cai tổng Đặng Văn Lương nói lại là khi khâm liệm thi hài quan phủ mới biết là “Quan phủ bị giặc cắt lưỡi chết!”. Như vậy, cụ “bị giặc cắt lưỡi chết” vì đã “lớn tiếng mắng giặc”!

    Ngày 25 tháng 7 năm Tự Đức thứ 25 (1872), vua Tự Đức ban tờ Chế để tưởng thưởng công lao và truy tặng cử nhân Nguyễn Hữu Quân, đánh giá như sau:
    “Cái khí tiết của người chí sĩ, lúc lâm nguy dù chết chẳng đổi dời; sự biểu dương khen ngợi của triều đình là còn để khuyến khích cho tương lai mãi mãi. Ngày lành hợp ý, ngỏ lòng thương xót công lao. Ôi! Nhà ngươi là chức Giáo thụ, lại nhiếp biện các công vụ của phủ Nam Sách là Nguyễn Hữu Quân đã quá cố! Ngươi sớm dự vào hàng nho khoa, được ra làm việc nơi quận huyện. Biết đem chính sự thi hành, khi được nhận lệnh ngoài ngàn dặm, không trễ nải việc quan, biết hết sức mình trong những ngày trách nhiệm. Bỗng vì giặc quấy mạn đông, một mình phấn đấu chí diệt thù, song thành cô đơn khó chống giữ nên bỏ nhẹ tấm thân vì nước. Đã hết sức trong phần trách nhiệm, lại dốc lòng khi gặp nguy nan. Lòng trung đó đáng khen, mà sự khen nên thật xứng đáng!”.
    __________________
    1. Chỗ này sách ĐNTLCB ghi nhầm. Đúng ra là Hàn lâm viện thị giảng.
    2. Làng Phúc An vì trùng tên với làng Phúc An, thủ phủ chúa Nguyễn thời Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1935) cách Huế 10km về phía Bắc, nên trong các văn bản hành chính, chữ Phúc bị buộc phải viết lại thành chữ Phú. Nhưng nhân dân vẫn quen gọi là Phước Yên.
    3. Các văn bản này con cháu họ Nguyễn Hữu ở Phước Yên còn giữ. Các bản dịch nghĩa ra quốc âm là do Viện Hán Nôm dịch giúp từ năm 1980.
    4. Như chú thích số 3.
    5. Hiện nay mộ phần hai ông bà Nguyễn Hữu Quân và hai ông bà Nguyễn Hựu Đệ nằm tại nghĩa trang xã Đại Hoà, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Tại đền tưởng niệm Trường An của huyện Đại Lộc và nhà tưởng miện của xã Đại Hoà đều có dựng bia tôn vinh danh nhân địa phương Nguyễn Hữu Quân.

    Nguyễn Hữu Hoằng


    Nguồn: Xưa & Nay, số 251-252, 1/2006   

    NHO SĨ TUẪN TIẾT NHƯ DŨNG TƯỚNG

    Bài 1: Xả thân nơi quan sơn muôn dặm...

    Có một người con quê hương Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, là nhà nho thanh bạch, đã anh dũng hy sinh như các bậc liệt anh, để lại tấm gương sáng về nghĩa khí, tấm lòng trung và nỗi thương tiếc khôn nguôi cho các bậc hậu thế. Đó là cử nhân Nguyễn Hữu Quân, một nho sỹ, nhưng trong lúc nguy nan, phủ thành bị giặc cướp phá, cụ đã anh dũng cầm gươm xông pha trong làn tên mũi đạn để giữ thành, rồi ngã xuống như một dũng tướng!

    Theo gia phả tộc Nguyễn Hữu(*), cử nhân Nguyễn Hữu Quân tự là Trúc Hiên, sinh năm Bính Thân - 1836, người thôn Trúc An, tổng Phú Mỹ, H. Duy Xuyên, phủ Điện Bàn. Nay là làng Phước Yên, xã Đại An, H. Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo, hiếu học và có cuộc sống thanh bạch. Thân sinh cử nhân Nguyễn Hữu Quân là cụ Nguyễn Hữu Phước, một nhà nho được người dân trong vùng quý mến. Anh trai là Nguyễn Hữu Khát, 6 lần thi đều đỗ tú tài.
    Xuất thân trong một gia đình có truyền thống hiếu học và nền nếp, nên đường học hành, thi cử của Nguyễn Hữu Quân rất hanh thông. Khoa thi Đình tại trường Thừa Thiên năm Tự Đức thứ 20 (Khoa thi Đinh Mão - 1867), Nguyễn Hữu Quân đỗ cử nhân. Khoa thi Hội năm 1868, bài thi của ông có dự vào phân số điểm - có nghĩa là gần bằng điểm lấy đỗ tiến sĩ hoặc phó bảng, theo chế độ khoa cử dưới triều Nguyễn lúc bấy giờ.

    Tháng 6-1868, cử nhân Nguyễn Hữu Quân được vua Tự Đức phê chuẩn vào ngạch Huấn đạo, làm Giáo thụ (phụ trách các công vụ về giảng tập và khảo hoạch) phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Sau đó gia đình có đại tang, Nguyễn Hữu Quân về quê thọ tang. Khi mãn tang, cụ được vua phê chuẩn làm chức Giáo thụ phủ đồng thời làm Quyền Nhiếp vụ (tri phủ) phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Thời điểm này, ngoài việc đương đầu với họa xâm lăng của thực dân Pháp, các tỉnh miền Bắc nước ta lúc bấy giờ còn đối phó với những dư đảng của Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Quốc tràn sang cướp phá ở mạn Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng... và cả bọn giặc Tàu Ô ở biển Đông vào cướp phá ở mạn Quảng Yên, Hải Dương... Theo "Đại Nam thực lục chính biên" của Quốc sử quán triều Nguyễn, quan quân triều đình và địa phương đã nhiều lần ra công đánh dẹp, nhưng có không ít lần giặc Tàu Ô kéo vào rất đông, gây ra nhiều thiệt hại đối với quân dân ta.


    Những tư liệu (sắc phong, chế...) liên quan đến cử nhân Nguyễn Hữu Quân được con cháu trong gia tộc lưu giữ cẩn thận.

    Vào đêm 26 tháng Giêng năm 1872, giặc Tàu Ô ngang nhiên đưa 90 chiến thuyền và 1.300 tên vào cướp phá phủ thành Nam Sách. Cụ Nguyễn Hữu Quân đã mang gươm lên mặt thành chỉ huy binh lính đánh trả quyết liệt. Do lực lượng quan quân ít (600 quân, quá nửa là quân mộ dũng), chưa bằng phân nửa số giặc cướp nên thành thất thủ, cụ bị sa vào tay giặc. Với khí tiết khảng khái của một nhà nho, cụ đã lớn tiếng mắng chửi bọn giặc Tàu Ô ngang ngược nên bị chúng sát hại. Người em của cụ là Nguyễn Văn Bốn cũng bị chúng giết. Trong tờ tấu của Bộ Binh với triều đình nhà Nguyễn, đề ngày 25-7-1872, có đoạn viết: "... Còn Phó lãnh binh Hoàng Văn Chữ, các cai đội Dương Văn Hoài, Trần Đạt, Lê Cảnh Hàm, nguyên Giáo thụ kiêm Nhiếp biện công vụ phủ Nam Sách Nguyễn Hữu Quân đều là người có trách nhiệm giữ thành. Khi giặc vây bức thành, họ đều xông mình lên trước ba quân, lên mặt thành chống đánh giặc cho đến khi thành mất, thân bị giặc giết. Nguyễn Hữu Quân là viên quan văn, thế mà cũng đề kiếm xông ra chiến đấu, bị giặc bắt được còn lớn tiếng mắng chửi giặc cho đến khi chúng giết...".

    Tưởng thưởng công lao và truy tặng cử nhân Nguyễn Hữu Quân, ngày 25-7-1872, vua Tự Đức đã có tờ chế truy tặng cụ thực thụ chức Giáo thụ và gia tặng là "Phụng Thành Đại Phu, Hàn Lâm Viện Thị Giảng", tên thụy là Đoan Thận, được liệt thờ vào Trung Nghĩa Từ tại Kinh đô Huế. Tờ chế của vua Tự Đức có đánh giá như sau: "Cái khí tiết của người chí sĩ, lúc lâm nguy dù chết chẳng đổi dời; sự biểu dương khen ngợi của triều đình là còn để khuyến khích cho tương lai mãi mãi. Ngày lành hợp ý, ngỏ lòng thương xót công lao. Ôi! Nhà ngươi là Nguyễn Hữu Quân, chức Giáo thụ, lại nhiếp biện các công vụ của phủ Nam Sách đã quá cố! Ngươi sớm dự vào hàng nho khoa, được ra làm việc nơi quận huyện. Biết đem chính sự thi hành, khi được nhận lệnh ngoài ngàn dặm, không trễ nải việc quan, biết hết sức mình trong những ngày trách nhiệm. Bỗng vì giặc quấy mạn Đông, một mình phấn đấu chí diệt thù, song thành cô đơn khó chống giữ nên bỏ nhẹ tấm thân vì nước. Đã hết sức trong phần trách nhiệm, lại dốc lòng khi gặp nguy nan. Lòng trung đó đáng khen, mà sự khen nên thật xứng đáng!". Ông Nguyễn Hữu Đệ, con trai duy nhất của cụ Nguyễn Hữu Quân, cũng được vua Thành Thái ban sắc làm Hàn lâm Viện Đãi Chiếu.

    Trong sách "Đại Nam thực lục chính biên" và sách "Đại Nam liệt truyện" cũng như các văn bản liên quan đến cụ cử nhân Nguyễn Hữu Quân còn lưu giữ cho đến ngày nay, không thấy ghi lại công tích của cụ đối với dân địa phương khi làm quyền tri phủ tại phủ thành Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Nhưng qua tờ trình của ông Đặng Văn Lương, cai tổng tổng Mạn Đê, thuộc H. Thanh Lâm, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương, gửi cho vợ của cử nhân Nguyễn Hữu Quân vào ngày 9-4-1872, cũng thấy được tình cảm của quan quân và người dân địa phương đối với vị Giáo thụ kiêm quyền Nhiếp vụ phủ Nam Sách thật thắm thiết. Trong đó, cai tổng Đặng Văn Lương đã tường trình cho vợ cử nhân Nguyễn Hữu Quân biết về cái chết anh dũng của cụ, đồng thời kể chi tiết việc mai táng cụ và người em tên Bốn trong thời điểm khó khăn ngay sau khi phủ thành thất thủ. Cai tổng Mạn Đê Đặng Văn Lương đã viết rằng: "Tôi nghĩ rằng, ai không có tấm lòng báo đáp nghĩa ơn, nhưng quan sơn muôn dặm trở ngại xa xôi. Nay tôi khẩn thiết xin rằng: Người đi ngàn dặm để chăn dân, dân cũng phải coi người là vị tôn thân kính trọng. Xin để người được yên nghỉ tại đây trong hai ba năm, cho dân ở đây được giữ gìn cẩn thận không ngại điều chi. Đợi sau đó sạch sẽ, sẽ đón hài cốt người về nơi nguyên quán, thì lòng dân chúng tôi mới được yên vậy!".

    Cử nhân Nguyễn Hữu Quân, một nhà nho thanh bạch nhưng tuẫn tiết như một dũng tướng! Khi ấy, ông mới 36 tuổi. Vợ ông, bà Phan Thị Tú khi ấy mới là thiếu phụ 32 tuổi, đã thân gái dặm trường ra đất Bắc để đưa chồng về an táng nơi nguyên quán...

    Thạch Hà (Theo CADN)
    (*) Chúng tôi trân trọng cảm ơn Gia tộc Nguyễn Hữu (thôn Phước Yên, xã Đại An, H.Đại Lộc - Quảng Nam) đã cung cấp tư liệu cho bài viết.


    Thứ Hai, 19 tháng 10, 2015

    NỔ BÌNH GA KHI NÀO

    Nhiều người nhầm bình hoặc bếp ga là nguyên nhân gây nổ, nhưng thực chất các vụ nổ thường bắt nguồn việc rò rỉ khí gas từ ống dẫn cao su, van hỏng.
    Tai nạn do cháy nổ gas diễn ra hàng ngày. Cách vài ngày lại có tin một vụ nổ mà nạn nhân có thể bị bỏng nghiêm trọng, thậm chí tử vong. Mới đây nhất, ngày 18/10, vụ nổ khí gas thương tâm xảy ra ở quận Tân Phú (TP HCM) đã khiến hai mẹ con thiệt mạng. Nguyên nhân ban đầu được xác định do bất cẩn khi dùng gas.
    Lo lắng bếp gas không an toàn mà nhiều gia đình chuyển sang nấu bếp điện, bếp từ, chấp nhận chi phí cao hơn. Hoặc có những gia đình vừa đun bếp gas vừa... run vì sợ. Trên thực tế, chỉ cần trang bị hiểu biết bạn vẫn có thể tận dụng được nguồn nguyên liệu sạch, chi phí phải chăng này.
    Cần hiểu bản thân khí gas rò rỉ không gây cháy nổ.  Nguyên lý cháy nổ là do khí gas kết hợp với oxy trong không khí tạo thành hỗn hợp cháy và chỉ cần ở trong nhiệt độ cao phù hợp hoặc có tia lửa phát ra khi bật công tắc bật đèn, quạt, điện thoại, giày cao gót có kim loại tiếp với mặt sàn... thì rất dễ xảy ra cháy nổ lớn.

    Tránh để nước bị trào hoặc gió lùa làm tắt bếp, sẽ gây rò rỉ gas. Ảnh: Lowtechmagazine.
    Các vụ nổ khí gas thường xảy ra khi:
    - Dây dẫn nối bình gas với bếp được xem là nguyên nhân dễ gây ra cháy nổ gas nhất. Làm từ chất liệu cao su, dây dẫn có thể bị rò rỉ sau một thời gian sử dụng lâu, hoặc do bị gập xoắn, dầu mỡ rơi bắn vào, chuột cắn...
    Để đảm bảo an toàn, nên mua dây dẫn chính hãng. Kiểm tra dây thường xuyên, tránh để dây gập, xoắn. Thay mới theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
    - Gioăng van không kín, van hỏng, lỏng; các mối nối giữa dây dẫn với bình gas và bếp lỏng lẻo cũng là nguyên nhân gây rò rỉ gas.
    Trong trường hợp này cần phải kiểm tra chỗ nối van điều áp và bình hay van với ống dẫn, bằng cách thử bằng bọt xà phòng. Thay van mới nếu nó đã cũ, hỏng và xiết chặt các mối nối để đảm bảo an toàn.
    - Không khóa gas sau khi đun nấu hoặc khóa sai quy trình. Nhiều bà nội trợ tắt bếp rồi mới khóa van bình gas, mà không biết gas vẫn còn trong đường ống dẫn. Cũng có những trường hợp chỉ khóa bình gas mà không tắt bếp dẫn tới gas khóa chưa kỹ bị rò rỉ ra ngoài...
    Quy trình đúng là khóa van bình lại, sau đó chờ lửa đốt hết phần gas còn trong ống dẫn rồi tắt bếp về đúng vị trí.
    - Vô ý khi đun nấu: Đun nấu bằng bếp gas nên tránh gió thổi trực tiếp vào bếp. Không để giấy tờ, giẻ bắc nồi, chai nhựa cạnh bếp để tránh bị bắt lửa. Tuyệt đối không để thuốc diệt côn trùng gần ngọn lửa, không được xịt thuốc dưới gầm bếp hoặc gần bếp lửa đang cháy.
    Một lỗi bất cẩn từ người sử dụng nữa là để không chú ý đến bếp khi đun nấu. Nhiều trường hợp quên bếp đang đun, dẫn đến nồi bị cháy khét, để gió tạt hoặc nước trào xuống bếp gây tắt lửa, trong khi gas vẫn bơm ra liên tục mà không được đốt cháy.
    Để đảm bảo an toàn, nên đặt bình cách bếp tối thiểu 1-1.5m, ở chỗ thoáng để dễ ngửi được mùi khi có rò rỉ.
    - Bình gas, bếp gas cũ, kém chất lượng: Việc nổ gas do bình hiếm xảy ra, trừ trường hợp bình gas bị sang chiết trái phép, không đảm bảo chất lượng, bình đã quá hạn sử dụng nhưng không được thu hồi về nhà sản xuất mà vẫn quay vòng. Nổ gas do bếp cũng ít xảy ra, nhưng việc đun nấu bằng các bếp đã cũ, hoen rỉ, bếp để bẩn, mâm chia lửa sai khớp... cũng dễ dẫn đến rò rỉ gas, gây nguy hiểm.
    Để đảm bảo an toàn, người dân nên mua bình gas, bếp gas mới của các thương hiệu. Vệ sinh bếp gas sạch sẽ, thường xuyên sẽ giúp tiết kiệm gas và phát hiện các trục trặc nếu có.
    An toàn cần biết khi đun bằng bếp gas:
    - Khi ngửi thấy mùi gas, trước tiên cần khóa van bình gas lại, sau đó nhanh chóng mở cửa, nhất là các cửa phía trên để tạo đối lưu cho khí gas thoát đi và hạ nhiệt độ phòng. Dùng các phương pháp thủ công để quạt bớt mùi gas (như quạt nan, bìa giấy), nếu quạt máy đang mở thì vẫn cứ để nguyên.
    - Tuyệt đối không được bật, tắt các thiết bị điện như bóng điện, quạt máy, không nghe điện thoại, đi giày cao gót có đế kim loại, nổ xe máy, đánh bật lửa, diêm.... bởi chúng sẽ sinh ra tia lửa điện gây nổ.
    - Trong trường hợp không xử lý được mùi gas, không khóa được van gas hoặc có đám cháy thì phải nhanh chóng chạy khỏi hiện trường và gọi cho nhà cung cấp gas hoặc 114.
    - Mọi gia đình có thể áp dụng cách kiểm tra gas bị rò rỉ bằng xà phòng và nên tiến hành thường xuyên: Lấy bọt xà phòng giặt hay rửa bát, phủ kín toàn bộ thân van gas, dây gas. Sau đó quan sát xem có hiện tượng sủi bọt bong bóng hay không, nếu có tức là van gas hoặc dây gas đã bị rò rỉ. Nên thử cả trường hợp đóng và mở van gas.
    Phan Dương (Theo Vnexpress)

    Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

    BỆNH HERPES MIỆNG, MÔI

    Vào mùa đông Virut Herpes simplex (HSV) có thể gây nên nhiễm khuẩn da cấp tính và biểu hiện mụn nước. Herpes phổ biến ở miệng, môi thường không làm dau đớn gì nhưng gây khó chịu và mất thẩm mỹ.
    Nguy cơ và biểu hiện bệnh

    Điều kiện thuận lợi để virut xâm nhập gây bệnh thường là: tổn thương ở môi, sốt, cảm cúm, suy nhược cơ thể, căng thẳng tinh thần, giảm sức đề kháng, giảm miễn dịch. Bệnh thường biểu hiện với các dấu hiệu đau, bỏng rát, ngứa hoặc tê nhẹ vùng da trước khi nổi mụn nước, sau đó nổi mụn nước thành chùm trên nền da. Vị trí thường gặp: quanh miệng, môi. 

    Bệnh Herpes miệng, môi
    Cách điều trị
    HSV là bệnh tự giới hạn. Tuy nhiên, nên dùng một đợt thuốc kháng virut để giảm bớt triệu chứng, ngăn ngừa lan tỏa và lây lan. Sử dụng tốt nhất vào thời điểm khởi phát.
    Hiện có 3 loại thuốc được chấp nhận dùng điều trị nhiễm Herpes là: aciclovir, valaciclovir và famciclovir. Tùy giai đoạn bệnh mà liều lượng và số ngày dùng thuốc sẽ khác nhau.
    Ngoài ra, thuốc bôi acyclovir dạng ống 5g có hoạt tính chống HSV gây bệnh ở người. Cần bôi thuốc càng sớm càng tốt khi bắt đầu có các triệu chứng báo hiệu hoặc khi xuất hiện các thương tổn đầu tiên. Không bôi thuốc vào niêm mạc mắt.
    Dùng toàn thân: acyclovir; valaciclovir; famciclovir, isopreinosine.
    Dùng tại chỗ: mỡ acyclovir 5% hoặc kem penciclovir 1% bôi 5 lần/ngày. Docosanol kem 10% bôi 5 lần/ngày cho đến khi lành đối với người lớn và trẻ em trên 12 tuổi.
    Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán Herpes sơ phát cần được cho thuốc uống càng sớm càng tốt và tư vấn về nguy cơ tái phát, cách làm giảm tái phát.
    Cách phòng ngừa
    Herpes rất dễ lây nhiễm qua đường tiếp xúc trực tiếp vì vậy cần lưu ý những điều sau:
    - Không tiếp xúc trực tiếp vùng da đang tổn thương của mình vào người khác như: hôn hít, sờ, chạm...
    - Không dùng chung đồ dùng cá nhân như bàn chải đánh răng, khăn tắm, khăn lau mặt, ly uống nước, chén, đũa…
    - Rửa tay sau khi thoa thuốc.
    - Không sờ lên mắt, cẩn thận khi trang điểm và tẩy trang.
    - Không nên cố gắng dùng kem hay phấn trang điểm để che đi những mụn rộp hay vết lở vì sẽ dễ bị bội nhiễm vi khuẩn.
    - Vết lở sẽ không còn gây lây nhiễm khi đã lành hoàn toàn và vùng da bị ảnh hưởng đã trở về bình thường.  
    Theo Sức khỏe và đời sống